Thứ Sáu, 14 tháng 1, 2011

TIỀM NĂNG ĐÁ QUÝ VIỆT NAM

TIỀM NĂNG ĐÁ QUÝ VIỆT NAM (phần I)
Viên ruby sao của Việt Nam





Các mỏ ruby và saphia

Khu vực Yên Bái:
Các phát hiện đầu tiên về khoáng vật corindon vào những năm 50 của thế kỷ trước do các nhà địa chất phát hiện trong quá trình thành lập bản đồ địa chất 1/500.000 lãnh thổ Việt Nam (do nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương làm chủ biên). Tuy nhiên, khi đó chúng ta mới chỉ biết được đó là khoáng vật corindon bình thường và chưa ai biết được giá trị thực của chúng ra làm sao. Ngay từ thời xa xưa, tại huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái đã tồn tại một địa danh mang tên chợ Ngọc (khu vực này hiện nay đang nằm dưới lòng hồ Thác Bà) và người ta kể lại rằng những dòng suối chảy qua khu vực trên được bắt nguồn từ Dãy Núi Con Voi chảy xuống khi đó những viên ruby màu đỏ kích thước lớn nằm rải rác dọc theo các dòng suối và người ta thường nhặt về bày trong tủ kính hoặc cho trẻ em chơi. Nếu như có mổ gà, mổ vịt ở khu vực này thì vẫn thỉnh thoảng phát hiện được ruby trong dạ dày của chúng. Cho mãi đến cuối những năm 80 của thế kỷ trước chúng ta mới biệt được giá trị thực của ruby khi mà có những phát hiện lớn tại Lục Yên và người Thái bắt đầu sang Việt Nam để thu mua với giá rất cao.

Ruby faxet mỏ Lục Yên (Yên Bái)

Ruby sao mỏ Yên Bái (viên bên phải nặng 520cts)

Saphia kích thước nhỏ mỏ Lục Yên
Ruby cabochon mỏ Yên Bái
Tinh thể ruby trong đá hoa mỏ Lục Yên
Các mỏ ruby thuộc tỉnh Yên Bái nằm rải rác dọc theo quốc lộ 70 kéo dài từ thị xã Yên Bái lên huyện lỵ Lục Yên, với các điểm mỏ nổi tiếng như Tân Hương (nơi khai thác được viên ruby Ngôi sao Việt Nam nặng 2.58kg và hiện được coi là báu vật Quốc gia, một mảnh vỡ nhỏ của viên này nặng 290cts được bán đấu giá năm 1999 với giá 290.000USD), Trúc Lâu (nơi khai thác được viên ruby sao nặng 1.96kg và cũng được coi là báu vật Quốc gia) và Lục Yên (hiện nay các hoạt động khai thác vẫn đang tiếp tục). Tại Tân Hương ta có thể gặp ruby, spinen. Tại Trúc Lâu cũng thường là ruby sao và spinen, còn tại Lục Yên thì ngoài ruby, saphia ta có thể gặp nhiều loại đá quý khác như spinen, tuamalin, amazonite, granat,….
Khai thác công nghiệp tại mỏ Tân Hương (1997)
Khai thác ruby thủ công dọc theo quốc lộ 70
Chợ đá quý Lục Yên năm 1998
Mỏ ruby Quỳ Châu:
Mỏ ruby Quỳ Châu được phát hiện vào cuối những năm 80 của thế kỷ 20, và ngay từ thời đầu tiên hoạt động khai thác ồ ạt và trái phép của dân đã diễn ra trên một diện tích rộng thuộc các xã Châu Bình, Châu Hồng,…với các điểm mỏ nổi tiếng như đồi Tỷ (nơi phát hiện được những viên có giá trị tiền tỷ) và đồi Triệu (nơi phát hiện những viên có giá trị tiền triệu) (tên các địa danh này do giới đào đá đặt). Về mặt chất lượng, ruby mỏ Quỳ Châu thuộc vào loại ruby đẹp nhất trên thế giới (tương đương với ruby mỏ Mogok của Mianma). Màu đẹp, độ bão hoà màu cao và độ tinh khiết cao. Tại đây khai thác được viên ruby nặng 56cts và bán đấu giá được 560.000USD vào năm 1994. 
Ruby Quỳ Châu (VIGEGO khai thác năm 1996)

Hố Tỷ (hiện tại) nơi hàng trăm người dân đã bị chôn vùi vào năm 1992
Lịch sử khai thác tại khu vực đồi Tỷ mang nhiều đau thương và chết chóc. Vào đầu những năm 90 tại đây mỗi ngày có hang nghìn người từ các nơi kéo đến đào đãi để mong được đổi đời và chúng nằm ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan chức năng. Để rồi một vụ sập hầm đau thương đã xảy ra khiến hơn 100 người bị vùi lấp ở độ sâu hơn 80 mét.
Miền nam Việt Nam
Các mỏ saphia miền nam Việt Nam được phát hiện rộng rãi tại các tỉnh Đak Nông, Lâm Đồng, Bình Thuận, Đồng Nai,…chúng phân bố chủ yếu trong các tầng phong hoá của đá basalt. Tại Đak Nông, Đá Bàn gặp các tinh thể saphia có kích thước lớn (đường kính 30-40mm) với màu lam đậm và các màu khác thường gặp là lục, lục lam,…tại Tiên Cô còn gặp loại saphia màu vàng mật ong. Tỷ lệ loại trong suốt có chất lượng ngọc thường chỉ vào khoảng 1-5%, còn phần lớn chúng là loại không có chất lượng ngọc. Mặc dù kích thước tinh thể lớn nhưng độ trong suốt rất kém và do vậy không thích hợp cho sản xuất hàng trang sức.
Ngoài ra tại các khu vực EaHleo, Đơn Dương, Vân Hoà đôi khi cũng phát hiện được các hạt ruby có kích thước nhỏ, màu đỏ hồng, hồng, da cam. Ruby ở đâu có màu khá đẹp độ trong suốt tương đối cao, tuy nhiên kích thước hạt bé nên không thích hợp để làm đồ trang sức.

Saphia miền nam Việt Nam

Kim cương

Cho đến nay vẫn chưa phát hiện đươc kim cương trên lãnh thổ Việt Nam, tuy nhiên các kết quả khảo sát địa chất đã cho thấy các tiền đề về địa chất tại vùng Tây Bắc Việt Nam và một số tỉnh Tây Nguyên. Cụ thể là các biểu hiện của các đá lamproïtes (lamprophyr kiềm) tại Tây Bắc với các đai mạch kimberlit tại Tây Nguyên.
Nhiều khả năng để phát hiện kim cương tại Việt Nam trong tương lai
Emerald
Cũng giống như kim cương, cho đến nay emerald và chrysoberyl vẫn chưa phát hiện được ở Việt Nam tuy nhiên theo các nhà địa chất học thì các thành tạo và cấu trúc địa chất tại một số khu vực thuộc Ba Bể (tỉnh Bắc Kạn) và Mỏ Ngọt (tỉnh Vĩnh Phúc), cũng như một số khu vực tại tỉnh Hà Giang giáp với biên giới Trung Quốc có triển vọng với loại đá quý này.
Beryl và aquamarin được phát hiện nhiều ở Việt Nam
   cũng là một tiền đề cho việc phát hiện emerald    

Tiềm năng đá quý Việt Nam (phần II)
Spinen màu hồng phớt nâu Lục Yên







Đá quý nhóm II (còn gọi là đá bán quý)
Berin và aquamarin
Các phát hiện đầu tiên của aquamarin và topaz ở Việt Nam là tại Xuân Lẹ (Thường Xuân, Thanh Hoá) vào năm 1985 trong quá trình lập bản đồ địa chất khu vực Bắc Trung Bộ của Liên đoàn địa chất IV. Aquamarin phân bố trong các đai mạch pegmatit có chiều dài hàng trăm mét và chiều rộng từ 0,40m đến 5,0m. Các khóang vật đi kèm bao gồm thạch anh, feldspar kali, plagioclas, muscovit, biotit. Trong các đai mạch pegmatit này còn gặp tuamalin màu đen (loại này đục thường không có giá trị trang sức) kích thước khá lớn, ngoài ra còn gặp topaz và zircon. Aquamarin ở đây thường có dạng tinh thể lăng trụ sáu phương, màu xanh nước biển nhạt đến xanh da trời, trong suốt. Kích thước tinh thể thường có chiều dài từ 5-20cm, đường kính từ 1-6cm. Các sa khoáng chứa aquamarin phát triển rộng rãi trong khu vực và là nơi dân địa phương khai thác.
Ngoài Xuân Lẹ, berin, aquamarin còn phát hiện được nhiều trong trong trường pegmatit Thạch Khoán (Vĩnh Phúc). Berin ở đây thường từ trong suốt tới bán trong suốt, kích thước thay đổi mạnh, nhưng thường gặp nhất là kích thước 1-4cm đường kính, chiều dài từ 10-30cm (ảnh dưới). Cá biệt nhiều khi gặp các tinh thể có kích thước rât lớn, cũng tại đây vào năm 1999 đã phát hiện được một tinh thể berin có trọng lượng 75kg (hiện được trưng bày tại Bảo tàng Địa chất). Các khóang vật đi kèm có thể gặp gồm tuamalin, thạch anh, mica, granat,…

 Aquamarin Vĩnh Phúc

Topaz
Đi cùng với aquamarin là topaz chúng cũng phát triển trong các thân mạch pegmatit. Theo tài liệu của các nhà địa chất (năm 1995) trữ lượng topaz tại mỏ Xuân Lẹ ước chừng khoảng 41,53 tấn. Topaz thường có kích thước khá lớn, bị rạn nứt mạnh do quá trình vận chuyển trong sa khoáng. Màu sắc thường là không màu, đôi khi gặp màu vàng nhạt khá thích hợp cho việc sản xuất hang trang sức.
Ngoài ra, một loạt các điểm topaz khác cũng được phát hiện tại Bảo Lộc (Lâm Đồng) và một số khu vực khác tại Yên Bái.

Tuamalin
Các kết quả khảo sát địa chất đã phát hiện được các thân pegmatit chứa tuamalin tại Lục Yên (tỉnh Yên Bái), tuy nhiên tuamalin có giá trị trang sức lại được khai thác chủ yếu trong sa khoáng, còn bản thân tuamalin phát triển cùng với thạch anh, mica và đôi khi là topaz trong các thân mạch pegmatit lại có chất lượng ngọc rất thấp (chỉ thích hợp cho mẫu sưu tập). Trong sa khoáng tuamalin có chất lượng ngọc được khai thác cùng với ruby, saphia tại các bãi bồi aluvi, chúng có màu sắc rất đa dạng lục, nâu, vàng, hồng và đen. Một đặc điểm hay gặp của tuamalin ở đây là tính phân đới màu. Theo chiều dài tinh thể ta gặp các màu hồng, tím và lục vàng xen kẽ nhau, và theo lát cắt ngang từ trong ra ngoài ta cũng gặp tính phân đới tương tự. Tỷ lệ tuamalin để mài faxet là rất thấp, hầu hết chúng thích hợp cho mài cabochon hoặc điêu khắc, số còn lại làm mẫu sưu tập.


Tuamalin Lục Yên

Mới đây (năm 2008) một loạt các phát hiện tuamalin tại Bắc Kạn. Tuamalin ở đây thường có màu hồng nhạt, lục nhạt và đen. Nhiều khi cũng gặp các tinh thể có tính phân đới màu giống tuamalin Lục Yên. Độ trong suốt thường từ bán trong tới đục và cũng không thích hợp cho việc mài faxet.

Spinen
Spinen chất lượng ngọc được khai thác cùng với sa khoáng ruby và saphia tại Lục Yên, Tân Hương (Yên Bái) và Quỳ Châu (Nghệ An). Tại Tân Hương và Quỳ Châu thường gặp spinen có màu đỏ, hồng đỏ tới hồng, độ trong suốt cao kích thước tinh thể khá lớn và rất thích hợp cho việc làm hàng trang sức. Trong các sa khoáng tại Lục Yên cũng gặp loại spinen có màu đỏ và hồng đỏ, tuy nhiên nhiều khi ta cũng gặp loại spinen có màu đỏ phớt nâu hoặc màu lam (rất dễ nhầm với saphia).
Trong đá gốc gặp các tập đá hoa chứa spinen phát triển rộng rãi tại mỏ Lục Yên. Spinen thường có màu đỏ, đỏ phớt nâu, nâu phớt tím. Tinh thể dạng bát diện, kích thước tinh thể rất thay đổi từ 0,5cm tới 4-5cm, đục và ít có giá trị trang sức chỉ thích hợp làm mẫu sưu tập. Các khoáng vật đi cùng với spinen bao gồm pagasit, humit, dolomite,…

Spinen các màu mỏ Lục Yên

Spinen trong đá gốc cùng với humit (màu vàng)

Zircon
Zircon được khai thác nhiều trong các sa khoáng liên quan tới basalt  miền nam Việt Nam và chúng thường đi kèm với saphia tại Kon Tum, Đak Lak, Gia Lai, Lâm Đồng và Bình Thuận. Chúng thường là không màu, nâu nhạt, đỏ nâu, cam nhạt và đôi khi có màu vàng nhạt. Loại kích thước bé độ trong suốt thường cao hơn loại kích thước lớn. Kích thước các tinh thể thường gặp từ 0,2cm – 1,5cm.

Peridot
Peridot được khai thác chủ yếu tại hai mỏ Hàm Rồng và Biển Hồ (Lâm Đồng), chúng thường có màu lục olive tới màu lục vàng với kích thước tinh thể nhiều khi tới 2x4x4cm. Tuy nhiên loại thường gặp nhất là từ 0,6-1,5cm. Trong sa khoáng peridot thường có độ rạn nứt cao, tỷ lệ sử dụng để sản xuất hàng trang sức khoảng 15-20%, số còn lại thường có kích thước nhỏ hoặc rạn nứt mạnh thích hợp cho sản xuất tranh đá quý.
 Peridot mỏ Hàm Rồng
Thạch anh, opan, canxedon
Các biến thể thuộc nhóm thạch anh được phát hiện tại nhiều nơi, nhưng chủ yếu cũng là liên quan tới  các trường pegmatit lớn. Thạch anh pha lê và thạch anh ám khói được khai thác nhiều tại Xuân Lẹ (Thanh Hoá), Thạch Khoán (Vĩnh Phúc) và Kỳ Sơn (Nghệ An). Thạch anh màu tím (ametit) gặp nhiều tại Đơn Dương (Lạng Sơn) và Gia Lai tuy nhiên chúng thường có kích thước nhỏ và màu nhạt. Thạch anh đen (morion) gặp ở Lộc Tân (Lâm Đồng). Thạch anh hồng được khai thác nhiều tại Đà Nẵng và một số tỉnh Tây Nguyên và chúng thích hợp cho việc sản xuất hàng mỹ nghệ.
Opan, canxendon được khai thác nhiều tại một số tỉnh Tây Nguyên (Gia Lai, Lâm Đồng, Kon Tum,…). Tỷ lệ opan thường rất ít, và chúng thường có màu không đẹp cũng như độ trong suốt không cao. Canxedon gặp nhiều hơn và gặp ở nhiều màu khác nhau: trắng đục, nâu, vàng, lục xám, đỏ,…và các dải màu xen kẽ nhau. Kích thước các khối canxendon nhiều khi tới hang tấn hoặc hang chục tấn. Trong những năm gần đây một khối lượng lớn loại này đã được khai thác và sử dụng làm mẫu trưng bày, đá phong thuỷ, tỷ lệ dung được để sản xuất hang trang sức rất thấp.


Thạch anh hồng (Đà Nẵng) và canxedon các màu khác nhau (Tây Nguyên)

Ngọc trai
Việt Nam có vùng biển dài và rất thích hợp cho việc nuôi cấy nọc trai. Hiện nay, ngọc trai được nuôi cấy chủ yếu tại Hạ Long (Quảng Ninh), Cát Bà (Hải Phòng), Nha Trang (Khánh Hoà), Phú Quốc (Kiên Giang). Việc nuôi cấy ngọc trai tại Việt Nam được bắt đầu từ khá sớm (vào những năm 60 của thế kỷ trước) và với công nghệ của Nhật Bản. Hiện tại ngoài 01Công ty của Việt Nam đang nuôi cấy tại Quảng Ninh thì các Công ty còn lại tại Hải Phòng, Khánh Hoà, Kiên Giang đều là công ty 100% Nhật Bản.
Về màu sắc, ngọc trai nuôi cấy tại các vùng biển của Việt Nam thường có màu trắng, vàng nhạt. Một số nơi tại Phú Quốc đã cho ngọc trai màu đen giống loại ngọc trai vùng Biển Bắc. Kích thước viên ngọc thường 5-8mm, loại lớn hơn 9mm hiếm hơn.

Ngọc trai Hạ Long

Một số loại đá quý khác
Jadeit và nephrit: Ngọc jadeit và nephrit đã được phát hiện tại Cò Phương (Sơn La), trong các đá biến chất cao thuộc cấu trúc sông Mã. Tuy nhiên về chất lượng chúng thường có màu xấu (lục rất nhạt đến trắng đục) và chứa nhiều bao thể tạp chất, thích hợp cho việc sản xuất hàng mỹ nghệ điêu khắc, việc làm hàng trang sức thì hầu như không thể.

Tektit: Tektit được phát hiện nhiều nơi ở Việt Nam từ bắc đến nam. Loại kích thước lớn thường được tìm thấy tại Kon Tum, Lâm Đồng và Phú Quốc. Một số khu vực tại biên giới giữa Việt Nam và Lào cũng là những nơi phát hiện nhiều tektit.

Fluorit: Fluorit được khai thác nhiều tại hai khu vực là Xuân Lãnh (Phú Yên) và Đông Pao (Lai Châu). Vềmàu sắc chúng thường có màu lục nhạt, tím nhạt hoặc các màu xen kẽ giữa chúng. Kích thước các tinh thể nhiều khi tới 10cm độ trong suốt từ bán trong tới đục. Loại trong suốt có thể mài faxet để sản xuất hang trang sức, loại đục thường được dùng để làm tranh đá quý.

Amazonit: Là biến thể màu lục của nhóm feldspat gặp nhiều trong các thân pegmatite vùng Lục Yên (Yên Bái) chúng thường đi cùng với tổ hợp khoáng vật tuamalin, thạch anh và mica. Kích thước các tinh thể nhiều khi tới 5-10cm chiều ài và 3-4 cm đường kính. Loại trong suốt có thể mài faxet để sản xuất hàng trang sức, loại đục thường được làm mẫu sưu tập hoặc mài cabochon, điêu khắc mỹ nghệ.



TS. Phạm Văn Long
Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kiểm định Đá quý và Vàng

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

 
Múa sắm đá quý uy tín chất lượng chỉ có tại LinaGem Stone